hoại thư sinh hơi
1. Sủi bọt trong nước tiểu. Thường thì những người khỏe mạnh sẽ thải ra nước tiểu có màu trong suốt hoặc hơi vàng nhạt, không có nhiều bọt xuất hiện. Nhưng nếu bạn phát hiện thấy có bọt trong nước tiểu và màu sẫm hơn khi đi vệ sinh vào buổi sáng thì điều này
Hoại thư sinh hơi nội khoa thường hiếm gặp, nhưng cũng có thể gặp như tiêm bắp hoặc chọc hút máu, các vết loét xây xát ở chi kết hợp với cơ địa dễ gây hoại thư là đái tháo đường, hút thuốc lá nhiều… Dấu hiệu hoại thư sinh hơi cơ là đau nhiều tại chỗ, phù nề nhanh, căng da.
Dù rằng xì hơi là một trong những phản ứng sinh lý bình thường của cơ thể nhưng nếu bạn xì hơi quá thường xuyên, xì hơi có mùi lạ thì đó là tín hiệu của bệnh tật. khi cô đi khám bệnh mới phát hiện ra rằng mình đã mắc bệnh ung thư ruột . Xì hơi có "mùi" này là
Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd. What Happened to the Indian Sub that Took In Damaging Water from an Open Hatch? – Note to any country’s navy do not leave a hatch open on a submarine. Apparently, the Indian navy did not get this memo and left a hatch open in 2017 that resulted in water damage that sidelined a major Indian submarine for ten months. However, there is a dispute that this really occurred despite all the mocking headlines making fun of the Indian navy in 2018 and beyond. The incident supposedly happened to the $ billion INS Arihant in February 2017. Someone allegedly failed to secure a hatch on the Arihant when it was at port, and seawater rushed in, creating serious damage to the sub’s engine room. The seawater then corroded pipes on the boat that put its nuclear reactor in danger. Or so we were told to believe. Is This Really True? But a fact-check website called BlackDot became hopping mad at the allegations. The group investigated the accusations and said the story wasn’t true. The saga started in an Indian publication called The Hindu written in January of 2018. BlackDot said the incident did not sink or otherwise damage the sub. In 2018, the Arihant even completed a patrol that would call into question that it was taken out of action for so long. Like BlackDot, the Economic Times of India was also skeptical of The National Interest, Task and Purpose, and Popular Mechanics – all who published articles about the open hatch and the sea water damage to the Arihant. There May Not Have Been Hatches in That Part of the Sub The Economic Times wrote, “The submarine has no hatches there. The Arihant is based on Russian double hull design with a sealed nuclear reactor section. Except for the latest French nuclear submarines that have a hatch above the reactor for quicker refueling, no other country with nuclear submarines have such a system. Although the Arihant’s core is not designed to operate for the submarine’s lifetime and will need refueling, it does not have a hatch. To refuel, the hull will have to be cut open and welded back.” Journalist Questioned the Open Hatch Story The author of the Economic Times article said on Facebook that “My piece in EconomicTimes on the Arihant nuclear submarine accident. I question the claim of an open hatch causing flooding and more importantly I question the report about political leadership not being aware of Arihant being out of service & need for nuclear confidence building measures with China ETDefence.” BlackDot also said that the Arihant is not a modified-Russian submarine, it is instead indigenously built. If the damage from the so-called “open hatch” had been true, it could have damaged the submarine’s propulsion system and that would have created a situation where significant repairs would have been necessary. But India’s Prime Minister Narendra Modi noted on Twitter that the Arihant successfully completed a deterrence patrol in late 2018. This means, according to Modi, that India has a full-fledged nuclear submarine that can run silent and run deep for long periods and can fire nuclear missiles while submerged. The Bottomline Sometimes an unbelievable report about such a terrible accident from an obvious mistake is just that – unbelievable. Give credit to the Indian navy and its defense base and shipyards for producing a nuclear-powered boomer to launch nuclear-tipped missiles. This is a significant feat for the Indian military, and it appears that nobody left a hatch open on the sub and that the hatch in question did not even exist if the fact checker can be believed. Author Expertise and Experience Serving as 19FortyFive’s Defense and National Security Editor, Dr. Brent M. Eastwood is the author of Humans, Machines, and Data Future Trends in Warfare. He is an Emerging Threats expert and former Army Infantry officer. You can follow him on Twitter BMEastwood. He holds a in Political Science and Foreign Policy/ International Relations. From 19FortyFive The 5 Best .22 LR Semiautomatic Pistols On Earth Ukraine Footage Shows M982 Excalibur’ Cut Through Russian Artillery Smashed To Pieces Video Shows Ukraine Hitting Russian Air Defenses Now serving as 1945s New Defense and National Security Editor, Brent M. Eastwood, PhD, is the author of Humans, Machines, and Data Future Trends in Warfare. He is an Emerging Threats expert and former Army Infantry officer.
Nhiễm trùng mô mềm do Clostridial bao gồm viêm mô tế bào, viêm cơ, và hoại tử cơ clostridial. Thường xuất hiện sau chấn thương. Triệu chứng bao gồm phù nề, đau, khí lép bép, tiết dịch thối, nóng đỏ vùng xung quanh, có thể tiến triển thành sốc, suy thận, và đôi khi tử vong. Chẩn đoán bằng thăm khám, mùi, và nhuộm Gram, khẳng định chẩn đoán bằng nuôi cấy Điều trị bằng penicillin và phẫu thuật mở ổ tổn thương Oxy nồng độ cao có thể có lợi. Điều trị bằng penicillin và phẫu thuật mở ổ tổn thương. Oxy nồng độ cao có thể có trùng clostridial ở mô mềm có thể xảy ra sau chấn thương hoặc tự phát. Nhiễm trùng thường hình thành khí trong mô perfringens là loài phổ biến nhất có liên mô mềm clostridial thường phát triển vài giờ hoặc vài ngày sau khi bị tổn thương đụng dập nghiêm trọng hoặc xuyên thủng mô, tạo thành môi trường kỵ khí. Sự có mặt của vật liệu ngoại lai ngay cả khi vô trùng làm tăng đáng kể nguy cơ nhiễm clostridium. Nhiễm trùng cũng có thể xảy ra trong các vết thương phẫu thuật, đặc biệt ở bệnh nhân có bệnh lý nền là bệnh mạch máu tắc nghẽn. Trường hợp tự phát hiễm khi xảy ra, thường là do nhiễm khuẩn huyết C. septicum sau thủng ruột ở bệnh nhân ung thư ruột, viêm túi thừa, hoặc nhồi máu ruột. Vì C. septicum có thể dung nạp oxy, nhiễm trùng có thể lan rộng rãi đến da và các mô mềm bình thường. Vì C. septicum có thể dung nạp oxy, nhiễm trùng có thể lan rộng rãi đến da và các mô mềm bình thường Nếu có giảm bạch cầu trung tính xảy ra đồng thời do bất kể nguyên nhân nào thì tiên lượng của nhiễm khuẩn huyết do C. septicum sẽ xấu; tiên lượng sẽ xấu hơn nếu xảy ra tan máu nội mạch. Trong điều kiện thích hợp khả năng sản xuất oxy thấp, độ pH thấp, như xảy ra trong mô bị tổn thương, thì nhiễm trùng có thể tiến triển nhanh chóng, từ tổn thương ban đầu đến sốc, mê sảng do nhiễm độc tố và chết trong vòng 1 ngày. Các triệu chứng và dấu hiệu của nhiễm trùng mô mềm do Clostridial Viêm mô tế bào Clostridial là một nhiễm trùng khu trú trên bề mặt vết thương, thường xảy ra ≥ 3 ngày sau khi bị thương. Nhiễm trùng có thể lan rộng trên bề mặt, thường có bằng chứng lép bép rõ và tạo ra nhiều bong bóng khí, nhưng độc tính ít nghiêm trọng hơn so với hoại tử cơ, và rất ít đau Phỏng nước đen thường thấy rõ ràng, với dịch tiết nâu có mùi rất thối. Phỏng nước đen thường thấy rõ ràng, với dịch tiết nâu có mùi rất thối. Hiếm gặp sự thay đổi màu sác và phù nề ở ngọn chi. Nhiễm trùng da do Clostridial liên quan đến sự tắc nghẽn mạch máu nguyên phát của một chi hiếm khi tiến triển đến hoại tử cơ nặng do độc tố và vượt ra ngoài ranh giới cơ do clostridial Nhiễm trùng cơ không hoại tử là phổ biến nhất ở những người sử dụng ma túy đường tĩnh mạch. Bệnh tương tự như viêm mủ cơ do Staphylococcus nhưng không có các triệu chứng toàn thân của hoại tử cơ do clostridial. Triêu chứng thường xay ra là phù, đau và có khí. Nhiễm trùng lan nhanh và có thể tiến triển thành hoại tử hoại tử cơ do clostridial hoại thư sinh hơi, đau dữ dội là triệu chứng đầu tiên, kể cả khi chưa có biểu hiện lâm sàng. Vị trí vết thương ban đầu có thể nhợt nhạt, sau đó trở thành đỏ hoặc màu đồng, thường có mụn nước hoặc phỏng nước, cuối cùng chuyển sang màu xanh đen. Vùng tổn thương phù nề, ấn mềm lan tỏa Tiếng lép bép ít được thấy ở giai đoạn sớm so với viêm mô tế bào do clostridial nhưng cuối cùng có thể thấy rõ ở khoảng 80% các trường hợp. Vết thương và dịch tiết có mùi thối đặc với sự tiến triển của bệnh, bệnh nhân xuất hiện nhiễm độc, với nhịp tim nhanh, xanh nhợt và hạ huyết áp. Sốc và suy thận có thể xảy ra, mặc dù bệnh nhân thường tỉnh táo cho đến giai đoạn cuối. Nhiễm khuẩn huyết, đôi khi có tan máu rầm rộ, xuất hiện ở khoảng 15% bệnh nhân bị hoại thư sinh hơi sau chấn cứ khi nào có tan máu lớn xảy ra, do suy thận cấp và nhiễm trùng máu, tỷ lệ tử vong có thể lên đến 70 đến 100%. Đánh giá lâm sàngNhuộm Gram và nuôi cấyNghi ngờ sớm và can thiệp sớm là cần thiết; viêm mô tế bào do clostridial đáp ứng tốt đối với điều trị, nhưng hoại tử cơ có tỷ lệ tử vong ≥ 40% với điều trị và 100% nếu không điều ngờ nhiễm trùng mô mềm do clostridial dựa trên đánh giá lâm sàng, đặc biệt là kiểm tra vết thương và khu vực xung quanh bao gồm cả mùi.Mặc dù viêm mô tế bào khu trú, viêm cơ và hoại tử cơ lan rộng có thể khác biệt về mặt lâm sàng, sự khác biệt thường cần xác đinh bằng phẫu thuật thăm dò. Trong hoại tử cơ, mô cơ hoại tử có thể nhìn thấy rõ trên lâm sàng; các cơ bị ảnh hưởng là một màu hồng mờ, sau đó đỏ đậm, và cuối cùng màu xám-xanh lá cây hoặc màu tím đốm và không đáp ứng với kích thích X-quang có thể cho thấy khí khu trú, CT và MRI mô tả mức độ khí và hoại tử. X-quang có thể cho thấy khí khu trú, CT và MRI mô tả mức độ khí và hoại tử. Dịch tiết vết thương cần được nuôi cấy tìm vi khẩn hiếu khí và kỵ khí. Vì Clostridia tăng gấp đôi số lượng trong mỗi 7 phút nên cấy tìm Clostridia có thể dương tính trong ít nhất là 6 giờ. Tuy nhiên, các vi khuẩn kỵ khí và hiếu khí khác, bao gồm họ Enterobacteriaceae và Bacteroides, Streptococcus, và Staphylococcus, đơn lẻ hoặc hỗn hợp, có thể gây ra viêm mô tế bào nặng giống như clostridia, viêm cân cơ mạc hoại tử, hoặc hoại tử cơ xem Nhiễm khuẩn Mô mềm Hoại tử Nhiễm khuẩn Mô mềm Hoại tử Nhiễm khuẩn mô mềm hoại tử thường do cả vi khuẩn hiếu khí và kị khí gây hoại tử mô dưới da, thường bao gồm cả cân cơ. Nhiễm trùng này thường gặp nhất ở chi và vùng hậu môn sinh dục. Vùng bị... đọc thêm . Ngoài ra, nhiều vết thương, đặc biệt vết thương hở, bị nhiễm cả clostridia gây bệnh và không gây có mặt của clostridia có ý nghĩa khi Nhuộm Gram cho thấy vi khuẩn số lượng ít PMNs được tìm thấy trong chất giọt chất béo tự do được nhìn thấy với vết Sudan. Dẫn lưu và mở ổPenicillin kết hợp clindamycinKhi có các dấu hiệu lâm sàng nhiễm clostridium ví dụ như sinh hơi, hoại tử cơ, cần can thiệp nhanh và tích cực. Dẫn lưu và mở ổ vết thương cũng quan trọng như kháng sinh; cả hai phải được tiến hành nhanh chóng. Penicillin G 3 đến 4 triệu đơn vị tiêm tĩnh mạch mỗi 4 đến 6 giờ và clindamycin 600 đến 900 mg truyền tĩnh mạch mỗi 6 đến 8 giờ có tác dụng ức chế sự sản sinh độc tố cần được tiêm ngay lập tức khi có viêm mô tế bào nặng và hoại tử cơ. Clindamycin đơn độc là không đủ. Nếu quan sát thấy các vi khuẩn Gram âm hoặc nghi ngờ, cần dùng kháng sinh phổ rộng như ticarcillin kết hợp clavulanat, ampicillin kết hợp sulbactam, piperacillin kết hợp tazobactam, carbapenem với clindamycin. Nếu bệnh nhân dị ứng penicillin có nhiễm clostridial đe dọa tính mạng, clindamycin, với metronidazole 500 mg IV mỗi 6 giờ, có thể được sử dụng; Nếu có các sinh vật khác, cần phải bổ sung một loại kháng sinh phổ rộng không phải beta-lactam như fluoroquinolone, cùng với vancomycin Staphylococcus aureus. Liệu pháp oxy cao áp có thể rất hữu ích trong hoại tử cơ lan rộng, đặc biệt ở các chi dưới, như một điều trị bổ sung cho kháng sinh và phẫu thuật. Liệu pháp oxy cao áp có thể cứu các mô và làm giảm tử vong và bệnh tật nếu nó được bắt đầu sớm, sử dụng oxy cao áp không làm trì hoãn phẫu thuật cắt bỏ. Nhiễm trùng tiến triển nhanh chóng trong vài giờ hoặc vài ngày sau chấn thương, đặc biệt khi có mô bị nghiền nát hoặc vết thương xuyên thủng mô, tạo ra môi trường kỵ mô tế bào do Clostridial thường ít gây đau nhưng viêm cơ hoặc hoại tử cơ thì đau điển hình; sinh hơi hoại thư trong mô là phổ biến ở tất cả các lưu và mở ổ vết thương một cách nhanh chóng và triệt trị penicillin và với hoại tử cơ rộng, xem xét liệu pháp oxy cao áp, nhưng không để biện pháp này trì hoãn điều trị phẫu thuật.
I. ĐẠI CƯƠNG HOẠI THƯ SINH HƠI Hoại thư sinh hơi là một nhiễm khuẩn nặng do vi khuẩn kỵ khí thuộc họ CLostridium, hay gặp nhất là Cỉostridium perfringens gây ra. Vi khuẩn kỵ khí này có ở nhiều nơi, khi gặp môi trường thuận lợi, vi khuẩn sẽ phát triển nhanh chóng. Môi trường đó là do các vết thương giập nát ở các khối cơ bị nuôi dưỡng kém, các vết thương cắt lọc không kỹ và khâu kín da, các vết thương có đặt garô hoặc bó bột chặt quá. Muốn tránh nhiễm khuẩn kỵ khí, tránh một thể bệnh nặng là hoại thư sinh hơi cần xử trí sớm vết thương phần mềm như cắt lọc hết những tổ chức giập nát thiếu máu nuôi dưỡng, rửa sạch, rạch rộng vết thương, không khâu kín da. Sau 5-7 ngay, khi vết thương sạch, ổn định sẽ khâu da kỳ II. II. CHẨN ĐOÁN HOẠI THƯ SINH HƠI 1. Lâm sàng Hoại thư sinh hơi xuất hiện từ 3-6 ngày sau khi bị thương. Dấu hiệu tại chỗ chi bị nề to, lạnh, màu sắc da thay đổi, do có màu lá úa với các nốt phỏng, các mảng bầm tím, xám hoặc nâu thẫm, ấn thấy lạo xạo hơi à dưới da, có nước màu vàng nâu rỉ ra, mùi thôi khẳm như mùi chuột chết, cơ bị hoại tử, màu đỏ thẫm, mềm nhũn, phình ra ngoài vết thương tiết ra nước nâu thôi, chứa nhiều vi khuẩn, hồng cầu và một ít bạch cầu. Dấu hiệu toàn thân tình trạng nhiễm độc, ban đầu thân nhiệt tăng cao, bệnh nhân kêu đau ở chi như bị băng quá chạt, thể trạng suy sụp đột ngột. Phải theo dõi sát diễn biến vì tình trạng nhiễm độc tăng nhanh, hoại thư lan rất nhanh. 2. X quang Phát hiện những hình sáng giữa đám mờ của tổ chức phần mềm, đó là hơi bị tụ lại. 3. Xét nghiệm Nuôi cấy ở môi trường kỵ khí phát hiện các trực khuẩn kỵ khí gram dương, có nha bào. III. THÁI ĐỘ XỬ TRÍ 1. Xử trí ngoại khoa Điều trị bằng phẫu thuật là chủ yếu Rạch mở rộng vết thương. Chỉ định rạch mở rộng vết thương trong những trường hợp + Bệnh mới xuất hiện chưa ăn sâu, lan rộng + Khi tình trạng quá nặng không cho phép xử trí triệt để. + Hoại thư sinh hơi khu trú + Hoại thư sinh hơi ở mông, ở thành bụng Cách xử trí rạch rộng vết thương theo hướng dọc dài 15-20cm, rạch sâu qua cân, cơ, đến tận đáy vết thương. Tưới rửa vết thương với dung dịch sinh lý, nước Dakìn, nước oxy già, thuốc tím loãng. Khi miệng vết thương mở lên trên thì rạch đối chiếu hay đặt ống dẫn lưu ở phần thấp để cho dịch thoát ra. Cắt lọc tổ chức bị hoại thư khi toàn trạng bệnh nhân cho phép, cần cắt bỏ hết các tổ chức bị hoại thư. Cắt cụt chi nếu hoại thư lan rộng, cần cắt cụt chi. Đây là cách xử trí triệt dể song nặng đối với bệnh nhân đã suy sụp, vì vậy phải + Gây mê toàn thân + Hồi sức tốt trước và sau khi mổ + Cắt cụt ở cao nơi cơ còn lành. Khi cắt, các cơ còn trương lực nên còn chảy máu. + Nên cắt cụt nhanh kiểu khoanh giò, cắt da, cơ, xương trên cùng một mặt phẵng. Khi bệnh nhân đã qua được tình thế hiểm nghèo sẽ sửa lại mỏm cụt. + Mỏm cụt để hở hoàn toàn, không khâu, nên rạch thêm hai đường dài ở hai bên mỏm cụt. + Sau 7-10 ngày, khi thể trạng bệnh nhân tốt, mỏm cụt sạch, sẽ mổ lại để sửa mỏm cụt. 2. Điều trị nội khoa hỗ trợ Truyền máu, truyền dịch trước và sau mổ Cho kháng sinh liều cao. Ban đầu chưa có kháng sinh dồ thì cho penicilin 5-10 triệu đơn vị pha vào huyết thanh, nhỏ giọt tĩnh mạch. Dùng phôi hợp thêm tetracylin 500mg, nhỏ giọt tĩnh mạch 8 giờ một lần. Huyết thanh chống hoại thư mỗi ngày 60-100ml tiêm bắp hay nhỏ giọt tĩnh mạch, cho từ 3-4 ngày. Hiện nay ít dùng vì sợ hiện tượng quá mẫn và ít tác dụng
hoại thư sinh hơi