hình ảnh lưỡi người nhiễm hiv

Nghe bác sĩ nói thế tôi chỉ biết là mình mắc bệnh chứ không biết HIV là gì. Về gặp mọi người, ai hỏi "kết quả khám thế nào" tôi đều thản nhiên trả lời là "bị HIV". Đến khi mấy đứa con trong nhà và mấy người hàng xóm hốt hoảng giải thích, tôi mới lo sợ Người đầu tiên cùng lúc mắc COVID-19, đậu mùa khỉ và HIV Thông tin WMO sử dụng bản đồ Trung Quốc có hình ảnh "đường lưỡi bò" được TS Nguyễn Ngọc Huy, Chuyên gia về biến đổi khí hậu và giảm thiểu rủi ro thiên tai phản ánh trên Facebook cá nhân vào đêm 22/8 Với nhiễm Candida thực quản: tối thiểu 14 ngày. Với nhiễm nấm Candida miệng, họng, lưỡi: ít nhất là 7 ngày. Còn nhiễm Candida ở cơ quan sinh dục: uống thuốc tối thiểu là 3 ngày. Thực tế thì thời gian điều trị nhiễm nấm Candida ở người nhiễm HIV dù ở cơ quan nào cũng Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd. 20 Hình ảnh lưỡi người bình thường khỏe mạnh và lưỡi bệnh lý có thể là những biểu hiện nói lên các dấu hiệu cảnh báo về tình trạng sức khoẻ của chúng ta. Vậy để biết được thế nào là hình ảnh lưỡi khoẻ mạnh và lưỡi bệnh lý thì hãy cùng theo dõi bài viết tiết về hình ảnh lưỡi người bình thường khỏe mạnh Về cơ bản, lưỡi của chúng ta sẽ có màu sắc là hồng nhạt hoặc hồng đậm với một lớp phủ màu trắng mỏng ở bên trên và điều này thể hiện rằng lưỡi của chúng ta hoàn toàn bình thường và khỏe mạnh. Được xem là một trong những bộ phận linh hoạt nhất trên cơ thể, lưỡi được cấu tạo bởi một nhóm cơ cho phép ta có thể nuốt, nếm mùi vị và giao tiếp câu từ. Một chiếc lưỡi khoẻ mạnh sẽ có màu hồng và được phủ bởi các gai nhỏ bên trên gọi là núm. Chúng sẽ có mặt rất nhiều tại phía mặt trên và dọc hai bên thân lưỡi với kết cấu thô ráp và biểu hiện như những nốt sần nhỏ. Thực tế, với số lượng lên đến 5000 gai ở người trưởng thành, mỗi một gai nhỏ này có thể được xem là tập hợp của vô số tế bào thần kinh và còn là nơi kết nối cũng như truyền tải thông tin đến cho não Hình ảnh lưỡi bệnh lý khi phát sinh biến đổi màu Có rất nhiều bệnh lý có thể làm cho lưỡi xảy ra nhiều màu sắc khác nhau, một số có thể tự động khỏi nhưng cũng có rất nhiều cần phải được can thiệp y tế mới có thể khắc phụcĐen Sự tích tụ keratin có thể dẫn đến hiện tượng chuyển màu đen ở lưỡi. Đây là một loại protein có trong da, móng tóc và việc có quá nhiều trong cơ thể có thể dẫn đến sự đổi màu ở lưỡi và khiến nơi đây mọc nhiều lông dẫn đến màu đen. Nguyên nhân có thể đến từ việc vệ sinh răng miệng kém, dùng thuốc, xạ trị hoặc hút thuốc. Ngoài ra, việc dùng các loại thức uống sẫm màu cũng có thể làm đen lưỡi, hoặc nghiêm trọng hơn là do xuất phát từ các bệnh lý như tiểu đường hoặc Khi lưỡi trở nên nhạt màu và xuất hiện mảng trắng thì đó có thể là do nhiễm nấm từ đó khiến người bệnh bị đau và hình thành các mảng trắng hoặc đỏ dày trên lưỡi gây khó nuốt. Mặt khác, tình trạng cũng có thể xuất phát từ các bệnh như lichen phẳng hoặc bạch sản gây nên các đốm Xảy ra do ảnh hưởng từ việc lưu thông máu kém hoặc do bệnh tim. Ngoài ra, đây cũng có thể là dấu hiệu của một bệnh lý gây viêm mạch máu đó là Biểu hiện chuyển sang màu đỏ và gồ ghề có thể xuất phát từ việc thiếu hụt vitamin B hoặc bị sốt ban đỏ, hoặc cũng có thể đến từ hiện tượng dị ứng, bệnh viêm lưỡi hay là một trong những dấu hiệu khác của bệnh Tình trạng này gọi là lưỡi bản đồ được thể hiện bởi các viền trắng hình thành xung quanh các đốt trắng xám nằm trên bề mặt lưỡi. Mặt khác, việc nhiễm bệnh chàm cũng có thể là nguyên nhân gây nên hiện tượng lưỡi có màu xanh lá Thường là xuất phát từ việc vi khuẩn phát triển do vệ sinh răng miệng kém và khô miệng. Ngoài ra, đây cũng có thể là dấu hiệu thay đổi trước khi chuyển biến sang màu đen và có Nguyên nhân gây nên cũng có thể tương tự như lưỡi màu vàng. Một số loại kháng sinh và thực phẩm cũng có thể gây nên hiện tượng này ở tím Điều này thể hiện tình trạng thiếu oxy trong máu có thể là do các vấn đề như rối loạn đông máu, bệnh thận, bệnh về mạch máu hoặc thiếu oxy từ ảnh lưỡi sưng đau có thể đến từ nguyên nhân gì? Tương tự việc đổi màu, hiện tượng sưng đau ở lưỡi có thể nói lên một hoặc nhiều vấn đề xảy ra tại đây, bao gồm Chấn thương Việc va phải lưỡi do vấn đề răng miệng hoặc do té ngã chắc chắn không chỉ mang đến cảm giác đau buốt cho chúng ta, mà còn để lại vết sưng gây khó chịu không thôi. Ngoài ra, thói quen nghiến răng cũng có thể làm 2 bên lưỡi bị đau. Hút thuốc Những đối tượng thường bị nghiện thuốc sẽ có biểu hiện kích ứng và làm lưỡi bị đau. Loét Hiện tượng này có nguy cơ xảy ra nhiều hơn ở những đối tượng bị căng thẳng trong thời gian dài. Hội chứng rát bỏng miệng Hội chứng này thường xảy ra ở các chị em đang mãn kinh khiến lưỡi vô cùng khó chịu do đau rát. Ngoài các vấn đề trên, các bệnh lý như thiếu máu hoặc tiểu đường cũng có thể làm xuất hiện triệu chứng sưng đau ở lưỡi. Nhìn chung, mặc dù các biểu hiện này thường không xuất phát từ nguyên nhân gì đáng lo ngại. Nhưng nếu như tình trạng này kéo dài và có dấu hiệu phát sinh khối u không biến mất sau 2 tuần thì tốt nhất là nên đi khám vì đó có thể là biểu hiện của bệnh ung thư khoang miệng trong giai đoạn đầu. Phía trên là những chi tiết về chủ đề 20 Hình ảnh lưỡi người bình thường khỏe mạnh và lưỡi bệnh lý. Mọi người nếu còn có thắc mắc nào khác thì hãy gửi câu hỏi vào TƯ VẤN MIỄN PHÍ hoặc gọi vào số HOTLINE để được giải đáp nhanh TÂM TƯ VẤN SỨC KHOẺĐược Sở y tế cấp phép hoạt độngHotline tư vấn miễn phí 02862857515Tư vấn online bấm >> TƯ VẤN MIỄN PHÍ << Các biểu hiện vùng miệng liên quan đến nhiễm HIV thường gặp ở bệnh nhân BN nhiễm HIV 30%- 80% nhưng ít được chú ý đến và không được xử trí đúng mức. Đang xem Hình ảnh lưỡi người nhiễm hiv Ngoài xuất độ cao, đây còn là một nhóm tổn thương có ý nghĩa về nhiều mặt và được chú ý đến ngay từ thời kỳ mới xuất hiện dịch bệnh vì – Những tổn thương này xảy ra trong miệng và do đó tương đối dễ phát hiện và dễ theo dõi. – Những tổn thương này thường xảy ra khi bắt đầu có tình trạng suy giảm miễn dịch và do đó mang tính báo trước cho sự chuyển giai đoạn AIDS. – Những tổn thương này ảnh hưởng đến chức năng ăn nhai nên càng làm cho bệnh nhân suy yếu hơn về thể chất và khả năng đề kháng. – Gần đây, khi BN được điều trị theo chế độ HAART, có sự thay đổi trong tỉ lệ cũng như mô hình các tổn thương niêm mạc miệng. Các yếu tố làm tăng nguy cơ bị những tổn thương vùng miệng liên quan HIV bao gồm – Số CD4 3000 phiên bản ARN/ml, tình trạng khô miệng, vệ sinh răng miệng kém, hút thuốc lá. Khi phát hiện tổn thương ở người chưa biết mình bị nhiễm HIV, sự hiện diện của tổn thương liên quan HIV khiến phải nghĩ đến tình trạng nhiễm HIV và xét nghiệm để xác định, đối với BN bị nhiễm HIV chưa điều trị ART, sự xuất hiện tổn thương là dấu hiệu bệnh đang tiến triển, đối với người nhiễm HIV đang điều trị HAART, việc xuất hiện một vài loại tổn thương là dấu hiệu của sự tăng trở lại nồng độ HIV-1 RNA trong huyết tương. II. các tổn thương niêm mạc miệng liên quan nhiễm HIV Năm 1996, Cộng đồng Kinh tế Châu Âu công bố bảng phân loại của các biểu hiện vùng miệng của bệnh nhiễm HIV như sau NHIỄM NẤM Nhiễm Candida dạng màng giả, dạng ban đỏ, dạng tân sinh, chóc mép. Nhiễm Histoplasma, Cryptococcus, Geotrichosis. NHIỄM KHUẨN Viêm nướu hoại tử – HIV, Viêm nướu- HIV, Viêm nha chu- HIV. Tổn thương viêm nhiễm do Mycobacterium avium intracellulare, Klebsiella pneumoniae, Enterobacterium cloacae, E. Coli. Actinomycosis, Bệnh mèo quào, Viêm xoang, nhiễm trùng do răng,… NHIỄM VIRUS Herpes Simplex Virus. Cytomegalovirus. Epstein- Bar virus Bạch sản tóc. Varicella – Zona virus thủy đậu, zona. Human papilloma virus Verruca vulgaris, Condyloma acuminata, Focal epithelial hyperplasia. TÂN SINH Kaposi sarcoma. Carcinoma tế bào vẩy. Lymphoma không Hodgkin. RỐI LOẠN THẦN KINH Bệnh dây thần kinh tam thoa. Liệt mặt. KHÔNG RÕ NGUYÊN NHÂN Loét áp tơ tái phát. Tiêu biểu mô do ngộ độc. Thiếu tiểu cầu nguyên phát. Khô miệng. Loét không điển hình. Chậm lành thương. Phì đại tuyến nước bọt. Tăng nhiễm sắc Melanin. NHIỄM NẤM Nhiễm Candida ngay từ những báo cáo đầu tiên năm 1981 về hội chứng AIDS đã có đề cập đến nhiễm Candida vùng miệng. Tuy nhiên, hầu như mọi trường hợp mô tả lúc đó đều ở dạng màng giả. Sau này, các dạng khác như dạng ban đỏ, tăng sinh và chóc mép đều được báo cáo với những tỉ lệ khác nhau ở người huyết thanh dương tính. Nhiễm Candida dạng màng giả hiện diện như những mảng trắng hay vàng vàng trên niêm mạc đỏ hay bình thường. Khi cạo, mảng trắng tróc ra để lại một bề mặt ướm máu. Vị trí thường gặp ở khẩu cái, niêm mạc má, môi và lưng lưỡi. Nhiễm Candida dạng tăng sinh đặc trưng là những mảng trắng không thể cạo đi được. Vị trí thường gặp là niêm mạc má, lùi về phía trong, ngược với vị trí gần khóe mép thường gặp ở những người không bị nhiễm HIV. Nhiễm Candida dạng ban đỏ hay dạng teo biểu hiện dưới dạng tổn thương màu đỏ sậm nổi bật hay rất kín đáo. Vị trí thường gặp ở khẩu cái, lưng lưỡi làm mất gai lưỡi, dạng nhiễm này tuy rất đặc trưng của nhiễm HIV nhưng thường bị bỏ qua vì ít gây triệu chứng lâm sàng và không làm cho bệnh nhân khó chịu. Chóc mép xảy ra khi bệnh nhân ở vào tuổi trung niên và không kèm theo các yếu tố bệnh căn của chóc mép thông thường như thiếu máu, thiếu vitamin, mất kích thước dọc. Tỉ lệ người nhiễm HIV có kèm nhiễm nấm candida thay đổi rất nhiều tùy theo tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm nấm và mẫu điều tra vào khoảng 66%. Nhiễm nấm candida đã được nghiên cứu như một dấu hiệu báo trước sự chuyển sang giai đoạn AIDS, đặc biệt là nhiễm candida dạng màng giả. Klein so sánh 22 bệnh nhân bị hạch toàn thân, có tỉ lệ T4/T8 đảo ngược, đồng thời bị nhiễm candida dạng màng giả, với 20 bệnh nhân ở tình trạng tương tự nhưng không bị nhiễm candida. Theo dõi trong 3 tháng cho thấy ở nhóm thứ nhất có 59% chuyển sang giai đoạn AIDS với sự xuất hiện của những nhiễm trùng cơ hội nặng, hoặc sarcom Kaposi trong khi ở nhóm thứ nhì không có người nào chuyển sang AIDS. Như vậy, có thể kết luận là một sự suy giảm số tế bào Lympho T4 cùng với sự nhiễm nấm candida là một dấu hiệu tiên lượng xấu, báo trước cho sự xuất hiện AIDS ở bệnh nhân nhiễm HIV. Chẩn đoán lâm sàng có thể xác định bằng soi tươi hoặc sinh thiết, cho thấy tế bào nấm ở dạng sợi phân nhánh hay bào tử. Điều trị tại chỗ dung dịch súc miệng tím gentian, Clotrimazole viên ngậm 10mg 5 lần/ ngày x 14 ngày, dung treo Nystatin đv. súc 5 ml x 4 lần/ ngày x 14 ngày, viên ngậm Nystatin viên đv x 4 lần/ x 14 ngày. Xem thêm Điều trị toàn thân Fluconazole, viên 100 mg x 2 trong ngày đầu, 1 viên/ ngày trong 14 ngày kế tiếp. NHIỄM KHUẨN Bệnh nha chu liên quan nhiễm HIV Thường có những biểu hiện trầm trọng hơn bệnh nha chu thông thường, đáp ứng kém hơn với điều trị kinh điển, tiến triển nhanh hơn, gây mất xương và lộ chân răng nhiều hơn. Viêm nướu viền đỏ Dấu hiệu thường là một đường viền đỏ ở nướu với những điểm viêm đỏ ở niêm mạc xương ổ, nướu dễ chảy máu dù vệ sinh răng miệng tốt và ít có tích tụ mảng bám. Các điểm viêm đỏ có thể do sự bội nhiễm Candida. Đôi khi thấy gai nướu sưng phồng ở vài vị trí. Nha chu viêm Mô nha chu bị tiêu hủy nhanh chóng, đau nhức nhiều, răng lung lay. Trái với bệnh nha chu thông thường, có sự tiêu mất các mô nâng đỡ nhưng túi không sâu. Có thể kèm viêm nướu lở loét hoại tử. Viêm nha chu lở loét hoại tử thường chỉ gặp ở trẻ suy dinh dưỡng, hay bị các bệnh làm suy giảm hệ thống miễn dịch. Ở người trưởng thành bị nhiễm HIV cũng dễ thấy bệnh này. Các vi khuẩn gây bệnh, ngoài một số vi khuẩn thường gặp trong các bệnh nha chu, còn có một số vi khuẩn kỵ khí có độc tính rất cao như Eikenella, Wollinella, Bacteroides, do tình trạng nhiễm HIV tạo những điều kiện thuận lợi làm cho tạp khuẩn trong khe nướu chuyển đổi sang các giống vi khuẩn có tính gây bệnh mạnh hơn. Thường các bệnh nhân bị nha chu viêm có hệ số T4/T8 thấp hơn các bệnh nhân bị viêm nướu, đồng thời có sự khiếm khuyết của chức năng bạch cầu đa nhân. Điều trị các dạng bệnh nha chu ở người nhiễm HIV phải được điều trị bằng biện pháp vệ sinh răng miệng kỹ lưỡng, có thêm biện pháp rửa các tổn thương với Betadine 10% và súc miệng hàng ngày với 0,12% chlorhexidine gluconate cho đến khi khỏi bệnh. Bệnh nhân bị đau và có tổn thương cấp tính phải được điều trị kháng sinh chống vi khuẩn yếm khí gram âm như Metronidazole viên 500 mg x 2 lần/ x 7- 10 ngày, hoặc Clindamycine và Amoxycilline. Đồng thời phải xử lý đau và tăng cường dinh dưỡng. Nhiễm khuẩn Lao Nhiễm khuẩn Lao Mycobacterium tuberculosis tăng một cách đáng kể ở người nhiễm HIV. Tổn thương do Lao trong miệng có thể xuất hiện như một vết loét ở lưỡi. Nhiễm Mycobacterium avium cellulare MAI gây nhiễm trùng phổi, trong miệng có thể tạo vết loét có phản ứng viêm hạt và hoại tử xương. Nhiễm Klebsiella pneumoniae và Enterobacterium cloacae có thể gây viêm loét ở lưỡi, khẩu cái. NHIỄM VIRUS Nhiễm Herpes Simplex Virus HSV ở bệnh nhân nhiễm HIV, viêm miệng Herpes xảy ra với tỷ lệ 5-13%, gây tổn thương trầm trọng và lan tỏa hơn là ở người không nhiễm HIV, bệnh dai dẳng, khó điều trị dứt điểm và dễ tái phát. Điều trị tại chỗ bằng Acyclovir. Nhiễm Varicella Zoster virus VZV có thể xem như một triệu chứng sớm của nhiễm HIV, ở bệnh nhân HIV khi bị nhiễm virus VZV có 23% bị AIDS sau 2 năm và 46% sau 4 năm. Điều trị toàn thân Acyclovir viên 800mg x 4 viênx 10 ngày. Nhiễm Human papilloma Virus HPV nhiễm HIV có vẻ làm cho dễ nhiễm HPV vùng miệng với những type HPV ít gặp như type 13, 18, 32 và gây tổn thương phần mềm như papilloma, verruca, condyloma, focal epithelial hyperplasia, carcinoma. Điều trị tại chỗ bằng 5-fluorouracil. Bạch sản tóc Hairy Leucoplakia Bạch sản tóc được mô tả đầu tiên vào cuối năm 1981 ở San Francisco, sau đó được ghi nhận khá phổ biến ở bệnh nhân nhiễm HIV ở nhiều nước. Đó là một tổn thương thường gặp ở bệnh nhân đang ở giai đoạn muộn của nhiễm HIV và AIDS dưới dạng một mảng màu trắng, thường thấy ở hông lưỡi, ở cả 2 bên. Bề mặt có nếp xếp giống như tóc, có khi có bề mặt phẳng, nhẵn láng. Vị trí thường gặp ở hông lưỡi, bụng lưỡi và ít gặp ở niêm mạc má, môi, sàn miệng, khẩu cái mềm, yết hầu. Có khi tổn thưong gây đau rát do bội nhiễm candida. Hình ảnh mô học cho thấy sự tăng sinh lớp gai và lớp sừng, làm cho lớp biểu mô dày lên và có khi tạo những nếp xếp hình sợi tóc. Trong lớp biểu mô thấy có những tế bào phình to hơi giống các koilocyte của nhiễm HPV. Các xét nghiệm labo cho phép phát hiện Epstein – Bar virus EBV trong các tổn thương này. Hiện nay, có 2 giả thuyết để thử giải thích tại sao EBV bội nhiễm ở niêm mạc miệng, hoặc là do nhiễm HIV làm mất tế bào Langerhans khiến cho EBV có sẵn tại chỗ được hoạt hóa hoặc thụ thể EBV trên tế bào hong lưỡi bị lộ tối đa khi nhiễm HIV, cho nên dễ gắn virus EBV. Bạch sản tóc là một tổn thương được xem là đặc trưng nhất của nhiễm HIV vùng miệng và cho phép tiên đoán sự tiến gần đến giai đoạn AIDS, tuy nhiên cần phải chẩn đoán sai biệt với một số tổn thương trắng khác. Không cần điều trị bạch sản tóc trừ khi có yêu cầu thẩm mỹ. Ở bệnh nhân được điều trị ART, sự xuất hiện của bạch sản tóc là một dấu hiệu của điều trị thất bại. TÂN SINH 3 loại tân sinh có ghi nhận liên quan đến nhiễm HIV. Những tân sinh này, hoặc là do tác nhân sinh ung, virus sinh ung làm cho ung thư xảy ra ở người suy giảm miễn dịch, hoặc là do một cơ chế gây bệnh nào khác. Sarcom Kaposi Năm 1872, Moritz Kaposi mô tả một loại bướu gọi là “Sarcom nhiều ổ nguyên phát gây xuất huyết” và xem đó là một bướu ác tính của các tế bào thành mao mạch, xuất hiện ở người Phi Châu với một tỉ lệ rất thấp. Khi dịch bệnh HIV xuất hiện ở San Francisco, sarcom Kaposi gây sự chú ý vì xuất hiện nhiều ở nhóm đồng tính luyến ái, và tác nhân gây bệnh được nghi ngờ là virus CMV, herpes… Tuy nhiên, các cố gắng để phân lập virus đều thất bại. Hiện nay, không thể loại trừ khả năng Sarcom Kaposi không phải là một loại tân sinh thật sự mà là kết quả của sự tăng sinh mạch máu do HIV kích thích một yếu tố tăng sinh mạch máu angioproliferative factor. Ở bệnh nhân AIDS, sarcom Kaposi thường có những tổn thương nhiều ổ, khởi đầu là dạng ban đỏ, sần hay hòn đỏ xuất hiện ở da hay niêm mạc. Ngoài da, vị trí hay gặp là ở thân người, chân, tay. Ở mặt vị trí đặc trưng là đầu mũi. Tổn thương ở da lan rông và sậm màu dần, và các tổn thương lân cận thì dễ dính lại với nhau. Ngoài ra, sarcom Kaposi có thể ảnh hưởng đến các phủ tạng. Trong miệng, sarcom Kaposi được để ý đầu tiên vào năm 1982 ở nhóm đồng tính luyến ái ở San Fracisco và sau đó, năm 1988, một nghiên cứu theo dõi trên 134 bệnh nhân cho thấy tổn thương này thường xuất hiện vào tuổi trung bình là 34 tuổi, 45% có đồng thời với tổn thương da và 22% xuất hiện trước. Sarcom Kaposi trong miệng có thể xem là dấu hiệu đầu tiên của giai đoạn AIDS .Vị trí thường gặp trong miệng là khẩu cái, đặc biệt là ở một bên khẩu cái, kế đến là nướu và lưỡi. Tổn thương bắt đầu như một mảng đỏ hơi xanh hay đen kế đến to dần, sậm màu và nổi gồ lên, có bề mặt lở loét hay nhiều múi. Tổn thương thường hơi rắn trước khi loét bề mặt. Hình ảnh vi thể của Sarcom Kaposi rất đặc trưng, cho thấy có sự tăng sinh những dãy tế bào nội mô hình thoi hay hơi phình, đan vào nhau và rất nhiều mạch máu. Khi Sarcom Kaposi xuất hiện đồng thời với một nhiễm trùng cơ hội, thời gian sống sót trung bình của bệnh nhân từ 6 đến 9 tháng. Sarcom Kaposi ít được ghi nhận ở BN nhiễm HIV ở Thái Lan và Việt Nam. Điều trị bằng cách tiêm Vinblastine sulfate tại tổn thương. Lymphom không Hodgkin NHL NHL xuất hiện ở bệnh nhân nhiễm HIV với tỉ lệ cao hơn ở người bình thường. NHL thường liên quan đến tế bào Lympho B va có thể chứa virus EBV. NHL rất hiếm gặp trong miệng so với các vị trí khác như hạch lympho, tủy xương, gan và màng não. Trong miệng vị trí được ghi nhận là vòng Waldeyer, nướu và tuyến mang tai, làm mô mềm tăng sinh và hủy hoại xương bên dưới. Carcinom tế bào vảy Ở bệnh nhân nhiễm HIV, có báo cáo cho thấy carcinom tế bào vẩy xuất hiện trong miệng đặc biệt ở lưỡi. Hiện nay có giả thuyết cho rằng tỉ lệ ung thư miệng cao ở người trưởng thành trẻ phái nam được cho là có thể liên quan với nhiễm HPV. KHÔ MIỆNG Khô miệng là nguyên nhân chính gây sâu răng ở người nhiễm HIV. 30%- 40% người nhiễm HIV bị khô miệng do sự thâm nhiễm tế bào CD8 trong các tuyến nước bọt lớn có thể gây phì đại tuyến hai bên hoặc do tác dụng phụ của các thuốc ART như didanosine. Những thay đổi về chất và lượng của nước bọt dễ dẫn đến sự giảm khả năng kháng khuẩn, đa sâu răng và viêm nha chu. Người nhiễm HIV nghiện ma túy hay sử dụng methamphetamine, có nguy cơ bị đa sâu răng do khô miệng, nhu cầu ăn đường cao, dinh dưỡng kém và vệ sinh răng miệng kém cùng với tác dụng soi mòn của các chất acid và chất tẩy có trong methamphetamine tinh thể. Xem thêm III. PHÒNG NGỪA CÁC BIỂU HIỆN VÙNG MIỆNG CỦA NHIỄM HIV Để phòng ngừa các biểu hiện miệng của nhiễn HIV cần Tăng cường các biện pháp vệ sinh răng miệng cá nhân, súc miệng bằng dung dịch tím gentian pha loãng và dung dịch kháng khuẩn, Đi khám định kỳ để điều trị sớm sâu răng, bệnh nha chu và các tổn thương khác, Thực hiện lối sống lành mạnh và chế độ dinh dưỡng cân bằng. Post navigation Những người nhiễm HIV có nhiều khả năng phát triển các vấn đề về sức khỏe răng miệng, do virus có thể làm suy yếu hệ thống miễn dịch, khiến việc chống nhiễm trùng trở nên khó khăn Tổ chức Y tế Thế giới WHO, khoảng 40%-50% người nhiễm HIV bị nhiễm trùng miệng có thể gây ra các biến chứng ở miệng, bao gồm cả vết miệng có thể gây đau làm ảnh hưởng đến việc ăn, nuốt và uống thuốc ở người nhiễm HIV. 1. Herpes miệngHerpes miệng có thể gây ra vết loét đỏ đau ở môi, nướu, lưỡi và bên trong má. Những tổn thương này thường được gọi là vết loét lạnh hoặc mụn nước sốt. Nguyên nhân là do nhiễm virus Herpes simplex HSV.Herpes miệng do virus Herpes simplex gây nên làm loét triệu chứng khác có thể bao gồm Sốt, mệt mỏi, đau cơ, sưng hoặc đau hạch bạch huyết, cảm giác nóng rát hoặc ngứa ran gần vết cứ ai cũng có thể bị Herpes miệng, nhưng HIV làm tăng nguy cơ nhiễm trùng cơ hội, chẳng hạn như HSV. Những người nhiễm HIV không được điều trị có thể trải qua các đợt bùng phát lạnh kéo dài và nghiêm trọng rất dễ lây lan. Có thể nhiễm Herpes miệng thông qua tiếp xúc trực tiếp với nước bọt hoặc vết loét lạnh của người bị nhiễm trùng. Có thể giảm nguy cơ nhiễm HSV bằng cách không hôn hoặc chia sẻ thức ăn với người bị Herpes miệng, đặc biệt là trong khi bùng cũng có thể gây ra mụn rộp sinh dục, có thể lây truyền khi quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn hoặc có thể điều trị bằng thuốc kháng virus uống, như acyclovir hoặc valacyclovir…2. Virus gây u nhú ở ngườiNhiễm trùng Papillomavirus HPV là phổ biến ở những người nhiễm HIV. HPV có thể gây ra những vết sưng nhỏ màu trắng, hoặc mụn cóc trên và xung quanh miệng và môi. HPV cũng có thể gây ra mụn cóc ở bộ phân sinh dục, rất dễ lây lan. Một người có thể nhiễm HPV khi quan hệ tình dục bằng miệng nếu virus xâm nhập vào máu thông qua vết cắt hoặc vết rách trong miệng, có thể gây loét miệng, khó nuốt, đau họng…Để giảm nguy cơ nhiễm trùng đường miệng bao gồm - Tiêm vaccine HPV, - Sử dụng bao cao su khi quan hệ, - Chung thủy, - Bỏ hút thuốc và các sản phẩm thuốc lá khác…Không có cách chữa trị cho HPV. Rất khó điều trị mụn cóc HPV bằng thuốc bôi, vì vậy các bác sĩ có thể cần phải loại bỏ chúng bằng phẫu Nhiệt miệngNhiệt miệng còn gọi là loét aphthous là vết loét nhỏ, nông, xuất hiện ở những mô mềm trong miệng như môi, bên trong má, nướu. Thông thường vết nhiệt ở miệng có màu trắng, đôi khi có màu vàng, viền xung quanh là màu đỏ, chúng có dạng hình tròn hoặc oval. Nhiệt miệng còn gọi là loét nhiều yếu tố nguy cơ gây nhiệt miệng như chấn thương miệng, chăng thẳng, thiếu vitamin và chức năng miễn dịch yếu. Vết loét này không lây nhiễm. Có thể giảm nguy cơ loét miệng bằng cách - Tránh và kiểm soát căng thẳng; - Tránh thực phẩm và đồ uống có tính axit hoặc axit; - Nhai cẩn thận để tránh làm tổn thương miệng; - Ăn một chế độ ăn uống cân bằng và lành mạnhĐối với vết loét nhẹ, súc miệng bằng nước súc miệng không kê đơn có thể làm giảm viêm và giữ cho vết loét sạch sẽ. Trong trường hợp nghiêm trọng, bác sĩ hoặc nha sĩ có thể kê toa thuốc mỡ và nước súc miệng để giảm thiểu đau đớn và trị Nấm miệngNhững người có hệ thống miễn dịch bị tổn thương có thể có nguy cơ mắc bệnh nấm miệng cao miệng là một bệnh nhiễm trùng biểu hiện dưới dạng các mảng trắng hoặc vàng trên lưỡi, vòm miệng hoặc bên trong cứ ai cũng có thể bị nấm tưa miệng, nhưng trẻ sơ sinh, người già và những người có hệ miễn dịch yếu có nguy cơ cao triệu chứng khác có thể bao gồm - Cảm giác nóng rát có thể gây khó nuốt; - Mất vị giác; - Khô miệng. Có thể điều trị tưa miệng bằng nước súc miệng chống nấm và Khô miệngHIV có thể làm cho tuyến nước bọt sưng lên, điều này có thể dẫn đến giảm sản xuất nước bọt và khô miệng. Nước bọt bảo vệ răng và nướu khỏi mảng bám và giúp chống nhiễm trùng. Khô miệng cũng có thể là tác dụng phụ của thuốc điều trị chứng khô miệng bao gồm - Khó nhai và nuốt thức ăn khô; - Khó nói; - Lưỡi đau; - Viêm lưỡi; - Loét lưỡi, hôi thể điều trị khô miệng bằng cách giữ cho miệng sạch và bổ sung nước. Nếu khô miệng kéo dài, cần đi khám để được điều trị thích hợp vì khô miệng có thể dẫn đến các biến chứng khác, chẳng hạn nbệnh nướu độc giả xem thêm video được quan tâmTrung tâm 'Hy vọng' - Lắng đọng những yêu thương

hình ảnh lưỡi người nhiễm hiv